VẤN ĐỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI TRƯỜNG ĐHSPKT VINH TRONG TIẾN TRÌNH HƯỚNG TỚI TỰ CHỦ ĐẠI HỌC
22/08/2021 11:50
VẤN ĐỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI TRƯỜNG ĐHSPKT VINH  TRONG TIẾN TRÌNH HƯỚNG TỚI TỰ CHỦ ĐẠI HỌC

Trên thế giới, khái niệm “tự chủ ĐH” (University autonomy) nói đến các mối quan hệ đang thay đổi giữa nhà nước và các trường đại học. Từ góc độ phát huy truyền thống tự do học thuật và giảm dần sự kiểm soát của các cơ quan công quyền đối với các trường đại học, tự chủ đại học được hiểu là quyền tự do của thể chế đại học trong việc ra quyết định và thực thi các quyết định đối với các hoạt động nội bộ của đại học mà không có sự kiểm soát hay can thiệp của nhà nước và bất kỳ sự ảnh hưởng nào nếu có của nhà nước cũng đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Tự chủ đại học là tự chủ thể chế đại học với nghĩa là tự chủ của trường đại học và tự chủ này được thể chế hóa bởi hệ thống các chính sách, pháp luật của nhà nước.

        Về tự chủ tài chính, theoRichardson, G. & Fielden, J., (1997)(xem [5]): tự chủ về tài chính: về bản chất đó là sự chủ động về việc đảm bảo các nguồn lực bên trong phục vụ cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường. Các trường ĐH cần được tự quyết định và chủ động về khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện có, đầu tư cho tài sản tương lai; cân đối các nguồn tài chính thu và chi nhằm đảm bảo hệ thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật và không vụ lợi.

        Ở Việt Nam, khái niệm “tự chủ” mới xuất hiện và phát triển trong quá trình đổi mới quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học theo tinh thần xã hội hóa bảo đảm thống nhất, kỷ cương quản lý nhà nước vừa phân cấp quản lý, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường đại học và thu hút sự tham gia của các bên liên quan. Tự chủ của cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam luôn là tự chủ có điều kiện, gắn với tự chịu trách nhiệm và được thể chế hóa từng phần nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của xã hội về phát triển nhân lực trong tình hình mới. Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định sáu lĩnh vực hoạt động được tự chủ với mức độ khác nhau gồm: (1) tổ chức và nhân sự, (2) tài chính và tài sản, (3) đào tạo, (4) khoa học và công nghệ, (5) hợp tác quốc tế, (6) bảo đảm chất lượng giáo dục đại học.

       Việc thực hiện quyền tự chủ đại học ở mức độ nào được quy định gắn với năng lực, kết quả xếp hạng, kết quả kiểm định và nếu cơ sở giáo dục đại học không còn đủ năng lực thực hiện quyền cũng bị xử lý theo quy định của pháp luật. Luật Giáo dục đại học sửa đổi sắp tới sẽ được trình Quốc hội thông qua. Qua phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về đổi mới mô hình quản trị đại học, thực hiện tự chủ đại học: “Sắp tới, Quốc hội sẽ thông qua Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), trong đó có nội dung quan trọng là tự chủ đại học, nhằm tạo điều kiện cho các trường đại học được tự chủ hơn về học thuật, chủ động sáng tạo, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong khuôn khổ của pháp luật, ít bị ràng buộc bởi các thủ tục hành chính. Tuy nhiên, tự chủ đại học không có nghĩa là các trường đại học phải “tự túc” hoàn toàn về tài chính, Nhà nước vẫn phải đầu tư để bảo đảm tốt các điều kiện thiết yếu về cơ sở vật chất, kỹ thuật và các phương tiện phục vụ để nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, …”, có thể nhận thấy, với Luật Giáo dục đại học sửa đổi, các trường đại học cơ bản vẫn chịu sự quản lý nhà nước về một số mặt, trong đó có vấn đề đảm bảo chất lượng giáo dục (là một trong những cơ sở để cũng cấp nguồn tài chính hỗ trợ cơ sở vật chất, kỹ thuật và các phương tiện phục vụ) và một số nội dung khác. Tuy nhiên, các trường sẽ được tự chủ mạnh mẽ hơn về các hoạt động khoa học công nghệ, sử dụng một phần cơ sở vật chất phục vụ cho công tác hợp tác, đào tạo và một phần mang lại nguồn thu cho cơ sở đào tạo.

Vấn đề “Tự chủ” tài chính ở trưởng ĐHSPKT Vinh

       Trường ĐHSPKT Vinh là đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên. Trường đóng trên địa bàn tỉnh Nghệ An - một tỉnh có giao thông thuận lợi, có tiềm năng về nhân lực, đất đai để phát triển đa dạng các ngành nghề nhưng địa phương vẫn chưa phát huy được thế mạnh phát triển kinh tế, đặc biệt là các ngành nghề công nghiệp theo hướng hiện đại. Cho đến nay, kinh phí hoạt động của Nhà trường phần lớn trích từ nguồn ngân sách nhà nước cấp và nguồn thu học phí từ sinh viên. Các nguồn thu từ hoạt động khoa học công nghệ, dịch vụ khác rất hạn chế. Theo tiến trình tự chủ của Nhà trường, nguồn ngân sách nhà nước cấp ngày cảng giảm; nguồn thu sự nghiệp vẫn còn hạn chế do nhiều lý do, trong đó có vấn đề tuyển sinh và định mức học phí trên sinh viên còn thấp so với các trường trên địa bàn (thực tế mức thu học phí của Nhà trường đối với sinh viên vẫn duy trì nhiều năm nay). Với hai nguồn thu chủ yếu nói trên và thực tế nguồn ngân sách nhà nước cấp sẽ chuyển dần sang đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác tổ chức đào tạo, ngân sách chi thường xuyên khó để đảm bảo chưa nói đến việc chi cho quỹ phúc lợi và các hoạt động khác của Nhà trường.

        Để quản lý sử dụng kinh phí có hiệu quả, nhà trường đã sửa đổi, ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2019, trong đó thực hiện khoán chi một số khoản chi phí, như: điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu, kinh phí cho các hoạt động khác trong Nhà trường, … Về kinh phí phục vụ đào tạo, Nhà trường đã ban hành quy chế quy định hạn mức sử dụng vật tư, thiết bị phục vụ giảng dạy thực hành, ... Việc xây dựng, sửa đổi quy chế chi tiêu nội bộ đã giúp cho nhà trường rà soát lại tất cả các định mức chi từ trước đến nay, các định mức chi bất hợp lý đã được điều chỉnh lại. Quy chế chi tiêu nội bộ thực sự đã trở thành một công cụ để lãnh đạo nhà trường quản lý sử dụng các nguồn lực tài chính của trường một cách có hiệu quả.

       Về vấn đề tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy, Nhà trường đã và đang thực hiện việc xác nhập các đơn vị, tinh giản đội ngũ lãnh đạo quản lý, sắp xếp cơ cấu tổ chức tại một số đơn vị, sắp xếp lại bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII).

Các giải pháp nâng cao hiệu quả “tự chủ” tài chính tại trường ĐHSPKT Vinh

       Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh có sứ mạng mang đến cơ hội và môi trường đào tạo, NCKH chất lượng, uy tín trong lĩnh vực giáo dục kỹ thuật, kỹ thuật công nghệ, kinh tế và xã hội theo hướng ứng dụng; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho giáo viên và người lao động đạt chuẩn Quốc gia, Quốc tế. Để đạt được sứ mệnh cao cả trên, việc giải quyết vấn đề tài chính trong điều kiện tự chủ là một mục tiêu quan trọng có tính sống còn, nó không chỉ đảm bảo duy trì các hoạt động thường xuyên mà còn là điều kiện để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội trong tình hình mới, đảm bảo hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp 4.0. Với mục tiêu đó, căn cứ vào tình hình thực tế của Nhà trường, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau nhằm khai thái đa dạng các nguồn thu, mặt khác cũng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng ứng dụng và nâng cao hiệu quả trong công tác nghiên cứu khoa học.

      1. Trong bối cảnh hiện nay, mô hình trường đại học, cao đẳng truyền thống đang trở nên lỗi thời và đang được thay thế bằng mô hình mới linh hoạt và mềm dẻo hơn, lãnh đạo từ cấp đơn vị đến cấp trường cần thực sự cải cách trong công tác quản lý, tổ chức hoạt động. Cần đầu tư nghiên cứu Đề án vị trí việc làm, cơ cấu lại tổ chức nhân sự tại các đơn vị, quan tâm đến đội ngũ cán bộ trẻ, thực sự có năng lực và tâm huyết; thực hiện tốt hơn nữa việc tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII); đặc biệt quan tâm việc nghiên cứu Luật Giáo dục đại học mới (sau khi đã được Quốc hội thông qua), học tập kinh nghiệm mô hình các trường đại học trong việc thành lập, tổ chức các trung tâm, đơn vị sản xuất, các viện trong trường vừa nhằm mục đích phục vụ đào tạo theo hướng ứng dụng, vừa nhằm mục đích mang lại nguồn thu cho Nhà trường; tổ chức hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất, với doanh nghiệp; tổ chức lại cơ cấu dịch vụ trong trường, tận dụng quỹ đất, cơ sở vật chất để đa dạng hóa hoạt động dịch vụ của Nhà trường.

       2. Hình thành và phát triển toàn diện mối liên kết Doanh nghiệp - Trường – Người lao động để sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực có trình độ cao.

        + Về mô hình Doanh nghiệp – Trường, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, yêu cầu về sử dụng vật liệu mới; bảo trì, bảo dưỡng máy móc; cải tiến cơ sở vật chất nhằm nâng cao năng suất lao động, đáp ứng yêu cầu về môi trường ngày càng cấp thiết. Với đội ngũ cán bộ giảng viên hiện tại, với cơ sở vật chất hiện có của Trường ĐHSPKT Vinh hoàn toàn có thể đáp ứng những nhu cầu này của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các doanh nghiệp lớn, ở nhiều quốc gia, các doanh nghiệp cũng thường có các phòng thí nghiêm của mình đặt ngay trong các trường ĐH để tạo điều kiện cho cho các giảng viên có trình độ cao, các học viên nghiên cứu các lĩnh vực khoa học liên quan của từng doanh nghiệp, giải quyết các vấn đề này sinh trong quá trình tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Địa bàn Nghệ An và các tỉnh lân cận có nhiều doanh nghiệp lớn, các khu công nghiệp lớn đã và đang trong quá trình đi vào vận hành (như Fosmosa Hà Tĩnh, Vsip Nghệ An, Khu công nghiệp Nghi Sơn – Thanh Hóa, ...). Trong điều kiện thực tế hiện tại, Nhà trường cần đầu tư thành lập đơn vị có chức năng quan hệ doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp. Đơn vị này cần phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn này. Trường ĐHSPKT Vinh là cơ sở nghiên cứu giải quyết các vấn đề chuyên môn về kỹ thuật cho các doanh nghiệp; là đơn vị cung cấp lực lượng lao động trình độ cao, tổ chức đào tạo theo đơn đặt hàng, đào tạo lại cho công nhân, cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại doanh nghiệp; tổ chức sản xuất vật tư đầu vào cho các doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp lớn là đơn vị giúp nhà trường tiếp cập với các công nghệ khoa học mới, môi trường sản xuất tiên tiến; giải quyết vấn đề đầu ra cho sinh viên; giải quyết vấn đề về tài chính (thu hút các nguồn học bổng; đào tạo sinh viên theo đơn đặt hàng; đào tạo lại công nhân, cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại doanh nghiệp; …) và góp phần phát triển lĩnh vực nghiên cứu khoa học (cùng giải quyết các vấn đề kỹ thuật nảy sinh trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất của doanh nghiệp). Mặt khác, doanh nghiệp với tư cách là nhà tuyển dụng để tự đánh giá các chương trình đang được đào tạo, điều chỉnh nội dung môn học đồng thời cập nhật nội dung mới đưa vào chương trình giảng dạy. Khi có sự hợp tác chặt chẽ, các nhà tuyển dụng sẽ có trách nhiệm tham gia trong một số khâu của quá trình đào tạo, đặt yêu cầu đối với các cơ sở đào tạo về nội dung kiến thức, kỹ năng để đáp ứng được nhu cầu của cơ sở mình. Việc phối hợp tốt, sâu rộng giữa Nhà trường với các doanh nghiệp là xu hướng tất yếu trong quá trình hội nhập cũng như yêu cầu tự chủ đại học. Việc hợp tác này có hiệu quả sẽ góp phần rất lớn mang lại nguồn thu tài chính cũng như nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội của Nhà trường. Đồng thời, đây cũng là con đường đề xây dựng vị thế, thương hiệu của các trường ĐH trong giai đoạn bùng nổ Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện nay.  

        + Về mô hình Trường – Người lao động, Nghệ An là địa bàn tỉnh lớn nhất cả nước, sản xuất nông nghiệp cũng như làng nghề hết sức đa dạng. Nhà trường cần chủ động tìm kiếm và tạo điều kiện cho việc phát triển các mối quan hệ chặt chẽ với các sở ban ngành (như Sở LĐTB&XH, Sở KH&CN, Sở NN&PTNT; ...) và các địa phương. Đối với các sở ban ngành, Nhà trường cần chủ động tham gia hợp tác, trao đổi với các sở ban ngành, nắm bắt các vấn đề khoa học kỹ thuật nảy sinh trong quá trình chỉ đạo, tổ chức hoạt động sản xuất tại các địa phương, các làng nghề, các ngành nghề đặc thù. Từ đó Nhà trường tổ chức cho giảng viên, sinh viên nghiên cứu đề xuất các giải pháp cơ bản, sản xuất các thiết bị để giải quyết các vấn đề nói trên. Đối với các địa phương, Nhà trường cần có các kênh vệ tinh kết nối thông qua chính quyền xã, huyện, thông qua các đơn vị hành chính địa phương, ... nhằm nắm bắt tình hình lao động sản xuất của người dân, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất. Làm tốt nội dung hợp tác này đồng thời cũng sẽ giúp sinh viên các năm cuối dần tiếp cận với thực tế sản xuất, tiếp cận với việc giải quyết những vấn đề khoa học kỹ thuật liên quan đến ngành học của mình.

      3. Vấn đề khai thác nguồn thu từ công tác đào tạo: Nhà trường cần mở rộng chủ trương tăng cường xã hội hóa giáo dục, góp phần nâng cao dân trí dưới hình thức đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đặc biệt là các loại hình đào tạo nghề cho đối tượng học sinh THCS theo Luật Giáo dục nghề nghiệp mới; mở thêm các mã ngành đào tạo mới, tăng cường các hoạt động liên kết đào tạo cả ngắn hạn lẫn dài hạn.

      4. Hiện này, Trường ĐHSPKT Vinh đang tổ chức quá trình đào tạo theo hướng ứng dụng. Đây là hướng đi đúng, phù hợp với thực tế của Nhà trường. Trong giai đoạn mới này, Nhà trường cần có lộ trình dài hơi, đầu tư thực sự vào việc xây dựng chương trình đào tạo tiên tiến hơn, phù hợp hơn với tình hình mới; phối hợp với doanh nghiệp, các nhà tuyển dụng để đánh giá, điều chỉnh chương trình đào tạo; áp dụng các chương trình giáo dục đại học, phương pháp dạy học theo định hướng ứng dụng tiên tiến với mục tiêu nâng cao năng lực nghề nghiệp của sinh viên từ nhu cầu  của thị trường lao động làm trung tâm.

Kết luận

       Vấn đề tự chủ tài chính để đảm bảo tốt quá trình tổ chức hoạt động của Nhà trường trong điều kiện tự chủ đại học là vấn đề quan trọng, sống còn để hoàn thành sứ mệnh của mình. Nó đòi hỏi tập thể Đảng ủy, Ban giám hiệu Nhà trường cùng tập thể cán bộ, giảng viên phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, sáng tạo, nội lực chuyên môn trong quá trình công tác. Với truyền thống gần 60 năm xây dựng và trưởng thành, chúng ta tin tưởng rằng, Trường ĐHSPKT Vinh vững bước tiến vào cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, trở thành một trong những cơ sở đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ hàng đầu, là đối tác tin cậy trong việc cung cấp nguồn lao động chất lượng cao, giải quyết các vấn đề khoa học công nghệ trong quá trình tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp, quá trình quản lý các sở ban ngành và quá trình lao động của nhân dân địa phương cũng như nhân dân trong cả nước.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Biền Văn Minh (2009), Tự chủ - Một hình thức khoán 10 cho giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu Hội nghị “Vấn đề tự chủ - tự chịu trách nhiệm ở các trường đại học và cao đẳng Việt Nam”, ĐHSP Tp. HCM năm 2009. tr. 68-74.

[2] Trần Sông Thương, Nguyễn Văn Linh (2018), Tự chủ tài chính giáo dục đại học và một số vấn đề đặt ra. http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tu-chu-tai-chinh-giao-duc-dai-hoc-va-mot-so-van-de-dat-ra-301206.html.

[3] Trần Xuân Ninh (2009), Tự chủ tài chính ở các trường đại học, cao đẳng công lập. Kỷ yếu Hội nghị “Vấn đề tự chủ - tự chịu trách nhiệm ở các trường đại học và cao đẳng Việt Nam”, ĐHSP Tp. HCM năm 2009. tr. 118-120.

[4] Chính phủ (2006), Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006.

[5] Richardson, G. & Fielden, J. (1997), Measuring the Grip of the State: the relationship between governments and universities in selected Commonwealth countries, CHEMS,London.

TS. Lê Hồng Sơn, Khoa GDĐC, Trường ĐHSPKT Vinh